Về xe ô tô lắp ráp và m w88
Từ năm 2009 đến nay, sản lượng xe ô tô lắp ráp hàng năm đạt xấp xỉ khoảng 100 nghìn xe/năm, cao nhất đạt 112,5 nghìn xe vào năm 2009 và thấp nhất đạt 86,9 nghìn xe vào năm 2012.Năm 2014 đạt 128,3 nghìn xe.Số lượng ô tô sản xuất và lắp ráp trong nước đáp ứng được khoảng 68% nhu cầu, trong đó xe khách đáp ứng khoảng 94%, xe tải đáp ứng 74%.
Xe ô tô bán tại thị trường nội địa bao gồm các xe lắp ráp trong nước và xe m w88. Năm 2014, tổng số xe tiêu thụ là 157810 xe, trong đó xe hơi (xe chở người 9 chỗ trở xuống) và xe khách chiếm 63,6%, xe tải chiếm 36,4%. Lượng ô tô bán ra của các doanh nghiệp thuộc Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng xe tiêu thụ hàng năm. Tỷ trọng này tăng từ 68% năm 2010 lên 84,65% năm 2014.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, số lượng xe ô tô m w88 đạt cao nhất vào năm 2009 ( 80.410 xe), thấp nhất vào năm 2012 (26.680 xe). Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, năm 2014, Việt Nam đã m w88 hơn 71.075 xe ô tô các loại, với tổng trị giá 1,58 tỷ USD.
Bảng:Số lượng xe ô tô và giá trị m w88 giai đoạn 2010 - 2014
2010
2011
2012
2013
2014
Tổng số xe (chiếc xe)
53.899
54.647
26.680
35.125
31.800
Giá trị m w88 xe (Triệu USD)
978,2
1031,9
615,5
727
1.580
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan)
Thị trường ô tô ở Việt Nam là một thị trường nhỏ, phân tán với sự tham gia của rất nhiều các thương hiệu ô tô lớn nhỏ đến từ châu Âu, châu Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc...
Hiện nay, Việt Nam m w88 ô tô từ 12 quốc gia và vùng lãnh thổ là Ấn Độ, Anh, Canada, Đức, Hàn Quốc, Mỹ, Indonesia, Nga, Nhật Bản, Pháp, Thái Lan, Trung Quốc. Số lượng m w88 nhiều nhất là xe của Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan.
Lộ trình giảm thuế xe m w88 từ các nước Đông Nam Á đã thúc đẩy các thương hiệu thuộc phân khúc bình dân đưa xe sản xuất từ Thái Lan, Indonesia về thị trường Việt Nam. Thực tế, xe mang các thương hiệu Toyota, Ford, Honda… đang chiếm thị phần áp đảo. Xe m w88 từ các nước ngoài khu vực ASEAN thường thuộc dòng xe đắt tiền của các thương hiệu cao cấp như xe BMW, Audi, Lexus...
Về linh kiện
Phần lớn linh kiện sản xuất trong nước đều ở dạng công nghệ đơn giản, giá trị thấp, chủ yếu dùng cho xe tải và xe khách.Đó là các chi tiết cấu thành khung gầm xe, thùng xe, vỏ cabin - cửa xe, săm lốp, gương, kính, ghế ngồi, bộ dây điện, dây phanh, ắc quy, hộp số, ống xả, trục dẫn, vành bánh xe, nhíp, ruột két nước, bộ tản nhiệt, vô lăng, các chi tiết composit… Các linh kiện, phụ tùng cốt lõi (thân, hộp số động cơ…) hầu hết đều phải m w88.
Có tới 80% đến 90% nguyên liệu chính cho sản xuất linh kiện như thép hợp kim, hợp kim nhôm, hạt nhựa, cao su kỹ thuật cao hiện phải m w88. Vật liệu làm khuôn mẫu chủ yếu cũng phải m w88. Các nhà sản xuất khuôn mẫu hoặc có quy mô không lớn hoặc thiếu sự liên kết phối hợp để phát triển. Các doanh nghiệp sản xuất phôi và chi tiết đúc cho ngành chưa nhiều và tỉ lệ sai hỏng còn cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành.
Hàng năm, các doanh nghiệp phải m w88 khoảng 2 tỷ USD các linh kiện, phụ tùng phục vụ cho sản xuất lắp ráp và sửa chữa xe. Linh kiện, phụ tùng m w88 có xuất xứ từ Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc...
Nhìn chung, ngành ô tô Việt Nam hiện nay vẫn còn dựa phần lớn vào việc m w88 từ các quốc gia khác trên thế giới mà chưa nâng cao được tỷ lệ nội địa hóa trong ngành. Với hiện trạng này, Nhà nước cần có nhiều chính sách hỗ trợ và thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất trong nước nhằm phát triển ngành công nghiệp ô tô trong nước theo hướng sản xuất bền vững.